TRUYỆN MA: BÊN NỒI BÁNH CHƯNG - Chương 19
Chương 18.
Ông Bá lắng tai nghe, âm thanh trẻ con khóc, âm thanh kêu cứu, cùng với tiếng kêu gào kia không phải là của một người hay một gia đình có thể tạo ra. Ông khẽ lắc đầu, giọng đầy nghi hoặc:
– Không đúng! Tôi nghe âm thanh này là của rất nhiều người chứ không phải một người.
Bà Phương chú ý lắng nghe, nét mặt ban đầu của bà trở nên sợ, hãi giọng run run:
– Mình…mình ơi! Có khi nào cướp vào làng không mình?
Ông Bá có vẻ đồng tình, cũng cho là đúng. giọng ông run run nói:
– Vậy thì chạy ngay đi thôi, không chết cả nút bây giờ. Nhưng âm thanh mỗi lúc một gần, hai người nghe rõ mồn một câu:
– Cứu tôi với! Quỷ! Quỷ!
Ông Bá có chút tò mò, hé cửa nhìn ra, cảnh tượng phía sau cánh cửa, khiến ông Bá sợ hãi, ngã khụy xuống đất. Thấy chồng lộ ra vẻ sợ hãi, bà Phương cũng ghé mắt nhìn ra. Bà sợ hãi bịt chặt lấy miệng, ngăn không cho âm thanh phát ra thành tiếng. Nhẹ nhàng đóng chặt cửa lại, nước mắt rưng rưng nghẹn ngào nói với chồng:
– Mình ơi! Thế là hết rồi. Người chúng ta còn trốn được, chứ ma quỷ làm sao mà trốn đây.
Ông Bá chết lặng người, chuyện gì đang xảy ra đây? Có lẽ nào, đây là một cơn ác mộng? Đúng, đây là ác mộng, chứ trên đời này làm gì có ma quỷ. Ông đè giọng xuống, tránh không để vợ biết mình cũng đang run sợ.
– Mau đi vào nhà! Không có chuyện gì đâu. Đây chắc chắn, đây chỉ là mơ mà thôi.
Mắc dù đang rất sợ hãi, nhưng bà Phương cũng cố chấn tĩnh, run rẩy cố gắng không gây ra tiếng động, nhẹ nhàng đi vào nhà trong. Lúc đi qua cái ao, bà khều tay chồng, giọng run run hỏi:
– Mình ơi còn con của chúng ta thì sao? Lỡ thằng bé bị đám ma quỷ ấy ăn thịt thì sao hả mình.
Ông Bá gắt:
– Ma mãnh cái gì? Nói linh tinh đây chỉ là giấc mơ thôi. Đừng có thần hồn nát thần tính như thế.
– Nhưng tôi lo lắm mình ạ. Lỡ con có mệnh hệ gì, tôi sống sao nổi đây.
Tức mình ông nói:
– Sợ thì xuống ao mà gọi nó lên, rồi đưa nó đi.
Ông không ngờ lời nói vô tâm ấy, khiến bà Phương tưởng thật. Bà chạy lại phía ao, đang định cất tiếng gọi, thì một cái miệng to lớn từ dưới ao lao lên, ngoạm chặt lấy người bà, bà chỉ kịp kêu “A” một tiếng, rồi theo đà kéo của con quái vật, ngã nhào và chìm hẳn xuống dưới nước.
Đi đằng trước, ông Bá nghe thấy tiếng kêu của vợ, rồi “ùm” một cái, quay lại không thấy vợ đâu, ông hốt hoảng nhìn quanh, dưới ánh sáng của ngọn đèn lồng, ông thấy mặt nước đang gợn sóng mạnh mẽ, biết vợ đã ngã xuống ao, ông vội vàng chạy đến nhìn xuống mặt nước, hy vọng tìm thấy hình bóng của vợ, nhưng nhìn mãi, chẳng thấy vợ ngoi lên.
Đang căng mắt ra nhìn mặt nước đen ngòm, với hy vọng thấy được dù chỉ một cánh tay, thì lập tức ông sẽ lôi nhanh bà lên. Nhưng ông không hề hay biết, có một chiếc hàm sắc nhọn đang từ dưới mặt nước lao nhanh lên. Trong chớp mắt nó đã ngoạm đứt đôi người ông Bá, máu phun tung tóe cơ thể đổ ập xuống nước. Và biến mất dưới làn nước đen ngòm.
Khi tiếng gà gáy sáng vang lên, màn sương đen cùng với lũ quỷ cũng biến mất, tất cả ngôi làng bỗng chìm trong yên lặng, trên mặt đất, ngổn ngang xương người, cùng với màu thịt văng tung tóe khắp nơi, đâu đâu cũng là một màu đỏ tang thương. Cơn gió lạnh thổi qua đưa mùi máu tanh bay đi, cũng đồng thời đẩy những chiếc lồng đèn đung đưa vang lên tiếng kẽo kẹt kẽo kẹt.l nghe đến não lòng.
Một ngôi làng đến, mới đây thôi còn vui vẻ cùng nhau chuẩn bị đón Tết, ấy vậy mà, chưa đầy một canh giờ đã trở thành một ngôi làng chết, không một ai còn sống sót.
Nói là không một ai còn sống sót, cũng không hẳn là đúng, bởi trong ngôi làng ấy, có rất nhiều người thành tâm đi xa để lễ chùa. Nhưng cũng nhờ thế, họ mới tránh được kiếp nạn lần này. Và họ chính là những người cuối cùng còn sống sót của ngôi làng.
Sau khi lễ bái trở về, bước vào làng, mùi máu khiến họ phải bịt mũi vì khó chịu. Nhưng thứ chờ họ không chỉ có mùi máu ấy, mà có cả đống xương trắng nằm la liệt khắp nơi. Họ sợ hãi chạy về nhà của mình, rồi nhưng tiếng khóc vang lên khắp nơi, gia đình của họ đã không còn nữa, họ sẽ phải sống đơn độc nốt quãng đời còn lại, để nhớ thương những người đã mất. Họ cùng nhau chôn cất người thân, và trong ngày hôm đó, họ rời làng đến nơi khác sinh sống. Chẳng một ai còn muốn lưu lại mơi tang thương này thêm một giây phút nào nữa.
Từ đó, ngôi làng trở nên hoang tàn, không một ai lui tới, cây cối cũng bắt đầu che kín lối để vào làng. Có lẽ, tất cả cũng đã quên, nơi đây từng có một ngôi làng giàu có và nổi tiếng, ngồi làng có tên là hạ kỳ.
Mặc dù ngôi làng ấy đã bỏ hoang, nhưng những ai đi ngang qua lối rẽ dẫn tới ngôi làng vào buổi đêm, đều nghe thấy rõ mồm một tiếng kêu khóc của những linh hồn. Thậm chí, có người còn bị dẫn dụ vào trong làng, rồi một đi không trở lại. Khiến cho người ta càng lánh xa ngôi làng ấy, có việc cần đi ngang qua, họ cũng tìm cách tránh đi đường khác, không một ai muốn bước đến gần ngôi làng kia. Họ đồn trong ngôi làng ấy có quỷ cư ngụ.