Nạn Kinh Hoàng Ở Làng Tuyệt Tư - Ep 2
Đã canh ba rồi, ngôi làng chìm hoàn toàn vào màn đêm đen. Tiếng ve kêu trong không gian đang yên tĩnh vang vọng cả một vùng.
Hòa chỉ nằm nghỉ ngơi được một lúc, liền ngồi dậy, thở dài rồi ra khỏi giường. Cậu lấy trong túi một bao diêm, quẹt một que rồi châm vào cây đèn dầu, vốn dĩ định đọc sách một lát, thì phát hiện trên bàn có đặt một tập giấy. Hòa giờ mới để ý, nên vội vã vặn to lửa, cầm lên xem thử, bên trong ghi:
“Sáng sớm ngày mai, ruộng đồng không có lấy một bóng quạ.”
Hòa đọc xong, nét mặt khó hiểu, sao tờ giấy này lại ghi như vậy, rốt cuộc nó có ý nghĩa gì?
Dù thắc mắc đủ điều, nhưng lại nghĩ thoáng chút, nên Hòa bỏ qua. Bỗng bụng cậu kêu ọc ọc, từ lúc đến đây cậu chỉ chăm sửa soạn đồ đạc, chưa ăn cơm, vì vậy cậu thấy hơi đói, liền lấy vài đồng rồi ra ngoài xem có quán cơm nào còn bán không.
May cho Hòa, quán cơm bác Tư vẫn mở cửa.
Hòa tấp vào quán, bên trong chỉ có vài người, cậu ngồi xuống bàn rồi gọi món, cậu gọi một dĩa cơm với trứng cùng chút nước canh măng luộc. Gọi xong thì tìm lấy chỗ ngồi chờ họ làm thức ăn, đang đợi thì có một người tới hỏi:
– Cậu ở thôn nào đến vậy?
Hòa nhìn lên, là một người phụ nữ có mái tóc dài búi gọn, quần áo tuy có chỗ vá nhưng lại rất sạch sẽ, đặc biệt cô có chiếc trâm cài ngang búi tóc, chiếc trâm dài độ một gang tay và có một bông hoa mai đính trên đó, dù kiểu dáng cây trâm khá đơn giản nhưng khi cài lên tóc lại giúp cô trong đẹp và thanh lịch rất nhiều.
– Dạ, cháu ở thôn Thị tới đây..
– Cô là Vĩ Hương, sau này cháu cứ gọi là cô Vĩ cho ngắn gọn, cô là người ở làng này, sống cũng được mấy năm, suốt thời gian cô sống chả có ai từ thôn khác tới làng cả, cháu là người đầu tiên trong suốt thời gian cô vào làng đấy! Nên cô muốn hỏi thăm xíu.
– Dạ…- Đáp lại lời cô Vĩ, Hòa chỉ biết dạ mà thôi, vì cậu đâu biết nói gì khác, nên nói thế cho nhanh gọn.
Cũng may là cô Vĩ chỉ hỏi thăm cậu vài câu như vậy rồi rời đi liền, Hòa cũng đỡ phải trả lời nhiều. Đúng lúc cô đi thì đồ ăn có, cậu múc một thìa lên ăn, cơm mới nấu còn nóng nên khá ngon, nhưng khi nhai lại có gì đó trong miệng rất khó chịu, đến khi cậu nhả ra, mới biết đó là rơm khô.
– Rơm??
Hòa nhìn một lượt quanh quán, tính tìm chỗ vứt thì nhận ra cọng rơm khô trên tay mình đã biến mất từ lúc nào. Nhìn lại thì thấy chiếc thìa rơi dưới đất, cậu định nhặt, nhưng khi gần chạm, nó lại là chiếc trâm hoa mai của cô Vĩ, nhưng khi nhặt lên thì nó lại là cọng rơm khi nãy, rồi cậu nhìn lại trên bàn, chiếc thìa vẫn ở đó, và cọng rơm trên tay cũng biến mất.
Từ lúc chuyển đến tới tận bây giờ, Hòa gặp không biết bao nhiêu chuyện kì lạ, khiến cậu rất hoang mang. Lúc đầu còn nghĩ thoáng được, nhưng càng về sau càng thấy kì quái, khiến cậu sợ hãi. Hòa cố ăn hết đống cơm với trứng nhanh nhất có thể, đứng dậy trả tiền rồi rời đi ngay lập tức.
Lúc đi vào làng, cậu có để ý thấy một cái chòi nhỏ, khuất sau hai ngôi nhà rơm, cậu thấy bên trong lập lòe những ánh sáng đỏ cam trong rất lạ, nên quyết định rẽ vào xem thử.
Bên trong chỉ có một cái bàn đơn, đặt trên đó là một bộ bài sơn toàn màu đen, và một cái dĩa đựng bạc, Hòa lấy một đồng bạc đặt vào dĩa, rồi bóc một thẻ, theo quy định được viết ở ngoài chòi. Chỉ thấy bên trong thẻ vẽ hình một người phụ nữ, vác một con bù nhìn bằng rơm, nhưng khi vừa chớp mắt, chỉ còn bóng dáng con bù nhìn đằng xa, còn người phụ nữ kia đã biến mất từ lâu. Hòa không hiểu gì cả, bỏ lại lá bài vào vị trí cũ rồi rời đi. Ngay khi cậu bước ra thì ánh đèn tắt, quay lưng lại thì cửa đã đóng từ khi nào.
Trở về nhà, Hòa nằm nghỉ nhưng lại liên tục nghe những tiếng kêu cứu, tiếng than khóc gọi tên mình, cậu trằn trọc mãi không ngủ được, cố nhắm nghiền mắt, mồ hôi vã ra như tắm, ướt hết áo. Bỗng một cơn gió đột ngột thổi qua, khiến cậu lạnh run mà bật dậy, do nhà cậu gần hồ nước, gió thổi từ ngoài hồ vào rất lạnh.
– Không…không có gì đâu…chỉ là gió lạnh quá thôi…không…không có gì…không có gì đâu Hòa ơi…mày nên đi ngủ….- Hòa lẩm bẩm tự an ủi mình trong sự sợ hãi, bỗng mảnh giấy trên bàn không biết làm cách nào, bay đến chạm vào tay cậu, cậu cầm lấy tờ giấy, nhưng tối quá, không thấy gì cả, vội vã vặn to ngọn đèn dầu, chiếu ánh đèn vào tờ giấy, bên trong ghi:
“Xác chết thảm khóc, oan hồn nổi lên, ruộng đồng hoang vắng, quạ không ghé vào…”
Dòng này nối liền với dòng lúc nãy, Hòa sợ quá, định xé vụn tờ giấy, nhưng lại thôi, làm vậy nhỡ phạm tội với người âm, khó sống. Hòa chỉ biết gấp gọn tờ giấy rồi nhét vào kẽ hở bàn tre, để đó lên giường ngủ tiếp.
Dù trời sắp sáng tới nơi, nhưng Hòa vẫn không thể chợp mắt nổi, sao có quá nhiều điều kì lạ xảy ra chỉ trong nửa ngày?
– Chả lẽ làng này có gì đấy dơ bẩn?
Vừa nghĩ thế, Hòa vội gạt bỏ suy nghĩ đó ngay: Không thể, đây là làng mẹ cậu từng sống, chắc chắn không thể có gì dơ bẩn được, cậu đành tự an ủi mình bằng cách cho rằng bản thân đang nghĩ quá. Bất lực quá khiến Hòa phải thở dài, cậu nằm đấy nghĩ ngợi đến khi bình minh lên, tiếng gà gáy inh ỏi khắp làng, những con chó hoang bắt đầu sủa. Tia nắng ấm áp qua ô cửa sổ, chiếu lên gương mặt của Hòa, cậu ngồi dậy, vươn vai một cái, cuối cùng trời cũng đã sáng.
Cậu lập nên kế hoạch hôm nay, đầu tiên là ra chợ mua ít đồ bỏ bụng cho no, rồi ghé thăm quanh làng, thăm suối, thăm đồng ruộng, kế hoạch như vậy đã hết một buổi sáng rồi, cậu tự kiếm cho mình cả đống việc làm để đỡ nhàm chán. Quyết định vậy, Hòa thay đồ, đeo túi rồi bắt đầu ra ngoài.
Trời bây giờ mới sáng thôi, nghĩa là mới bình minh, những giọt sương đâm trên các tán lá vẫn chưa tan. Dù còn sớm, nhưng đã có không ít người đi chợ rồi, làng này dậy từ khi trời mới sáng, họ có rất nhiều việc cần phải làm trong một ngày.
Ngoài chợ, Cửu thấy họ bày bán rất nhiều thứ, nào là vải lụa, rồi thịt cá, rau quả..v..v.. Người mua người bán tấp nập, đông vui lắm. Hòa đi quanh chợ rồi ghé đến một gánh bánh bò bánh bao, gọi hai cái bánh bò, tình cờ gặp được Nha đang đi bán gần đó, liền vẫy tay kêu cô bé vào, quay lại bảo lấy thêm hai cái nữa, Nha cười với cậu, Hòa cũng cười theo, nụ cười cậu hiền lành, thân thiện, nên ai gặp cậu cũng nhanh chóng có thiện cảm và yêu quý cậu.
– Em đi bán được lâu chưa?
– Dạ cũng lâu, tầm hai năm gì đó rồi..
– Mà em bán những gì vậy?
Nha chìa cái thúng đựng đầy những xấp vải hoa, cô bé nói đây là hàng các bà cụ trong làng làm ra, nên muốn cô đem đi bán kiếm chút thu nhập, nhưng khổ nỗi là không bán được bao nhiêu, tại vải dệt nơi nào cũng có, dệt đẹp hơn chỗ hàng Nha đem bán nhiều.
Hòa chỉ cười không nói gì, chỉ nhìn vào gương mặt gầy gò của Nha, mặt cô bé có chút lem luốc, nhưng lại rất xinh, sống mũi cao và đôi mắt long lanh, cùng mái tóc dài óng ả, dù không quá mượt nhưng lại được chải chuốt gọn gàng nên vẫn xinh lắm.
Đang chuyện trò tâm sự vui vẻ cùng Nha trong không khí hân hoan của phiên chợ, thì bỗng có người chạy đến, kêu la inh ỏi, vừa kêu vừa gào khóc thảm thiết, Nha với Hòa gần đó cũng nhìn theo xem có chuyện gì.
– Bớ làng nước ơi!! Ở ngoài ruộng….ôi bà con ơi..!!
Mọi người bắt đầu bàn tán, mấy bà trong làng toàn những người nhiều chuyện, thấy bà kia cứ gào khóc liên tục mà không chịu kể rõ sự tình, nên mới giục:
– Có chuyện gì mà bà cứ la hét như bị đòi mạng vậy bà Năm?
– Có gì từ từ nói, chứ hét toáng thế nó không hay đâu, bà cứ từ từ mà kể!
Mọi người trong phiên chợ hướng người la làng là bà Năm – vợ bác gác cổng, bảo bà mau nói rõ. Bà Năm thở hổn hển, mặt mày xanh lét, gắng lắm mới nói được mấy lời:
– Ngoài ruộng….ngoài ruộng….ngoài ruộng làng ta…c..có..có…
– Có gì??
– Có…c..có…- Hai tay bà run run vì sợ hãi, chưa kịp nói xong thì đã ngất đi. Hòa thấy thế liền bảo mấy thanh niên làng đến đỡ bà dậy, dìu bà vào quán nước gần đó cho bà ngồi nghỉ, chắc chạy với kêu la dữ quá, nên bà bị chóng mặt chút thôi.
– Hay ra ruộng xem thử đi?
– Ừ!
– Đi đi mấy bà!
– Ra ngoài đó xem thử xem!
Cả làng kéo nhau ra khu ruộng bà Năm từ ngoài chạy vào đây, Hòa cũng chạy theo, ngoài đồng bây giờ là thời điểm vụ mùa thu đông, rơm khô rải rác khắp ruộng, lúa vẫn chưa gặt. Hòa nghe kể rằng mấy năm trước, quạ bu kín ruộng, tranh nhau ăn những cây lúa chưa kịp gặt hết sạch, nhưng điều lạ là sao năm nay, sao quạ không xuống ăn lúa? Hòa thấy cả mấy đàn bay kín trời mà không con nào sà xuống ăn cả.
Có người hét lên:
– Có con bù nhìn đằng kia!! Quạ nó không đến là đúng!!
Mọi người không ai bảo ai, chạy ra xem, nhưng khi tiếp cận gần thì ai cũng chết khiếp mà lui lại, Hòa bước tới gần hơn chút, tim cậu lúc đó như ngừng đập, đúng là có một con bù nhìn ở đấy, nhưng điều đáng nói là con bù nhìn ấy…nó được làm từ xác người.
– Ai đến coi coi đó là ai đi!!
– Trời ơi không biết con nhà ai mà chết thê thảm thế này….
Hòa xung phong lại gần đầu tiên, bấy giờ cậu mới nhìn ra, nạn nhân bị trói trên cái khung bù nhìn (bù nhìn có khung là hình chữ thập, người ta sẽ thêm rơm để tạo hình hoặc mặc những mảnh vải làm áo quần cho giống người thật), rồi một nhát dao đâm xuyên cổ, nhát dao đó đính trên cây gỗ đứng luôn, máu tươi thấm đẫm cổ áo, hai tay buộc trên thanh tre ngang dài bằng những cọng dây kim loại gỉ, thân được cố định bằng mấy sợi dây thừng xiết chặt. Hòa giở cái nón che gương mặt nạn nhân lại, nét mặt từ ngạc nhiên chuyển thành hoảng sợ, cậu bất giác nhìn xuống dưới đất, hai con mắt nằm dưới chân thi thể vẫn còn dính máu, Hòa không ngờ tới hung thủ ra tay tàn nhẫn tới nỗi khoét mắt nạn nhân ra vứt dưới này.
Người trong làng đứng từ xa nhìn tới, mãi mà Hòa không nói cho biết là ai, sốt ruột, liền lên tiếng:
– Ai vậy??
– Cháu ơi là ai vậy cháu?
– Có khi nào….
Hòa quay đầu lại nhìn mọi người, rồi lại nhìn cái xác trước mặt, run rẩy thốt lên:
– Là..Cô Vĩ….
Người làng không nghe rõ, có người chạy lại để hỏi rõ hơn, Hòa không đứng vững nữa trực tiếp ngã xuống, cậu giơ cây trâm hoa mai lên trước mặt họ, người kia nhìn liền hiểu, hét lớn:
– Cô Vĩ!! Là cô Vĩ Hương làng ta!!
Người làng nghe vậy, có người bàn tán, có người khóc lóc, có người chạy tới để xem. Bỗng bé Nha hét lên, phải bám vào người bên cạnh để bản thân không ngã, toàn thân cô run rẩy, nước mắt tuôn rơi, vội vã chạy đến ôm xác cô Vĩ, khóc:
– Mẹ ơi…mẹ đã hứa…sẽ đón con về nhà mà?? Sao mẹ lại thành ra nông nỗi này…mẹ ơi..hức hức..mẹ ơi..đừng bỏ con mà mẹ ơi…
Những người trong làng cũng xúc động mà khóc theo, hóa ra cô Vĩ là mẹ ruột bé Nha, vốn dĩ gia đình ba người nhưng vì cô đã li dị với chồng, nên bé Nha phải theo cha chuyển vào thôn Thanh sống. Bé Nha khi lớn đã tìm đến đây để kiếm mẹ, nhưng mãi mà hai mẹ con chưa gặp được nhau, đến tận hôm qua cô Vĩ mới biết Nha đã về đây, cô muốn nhờ Hòa bảo Nha đến nhà gặp cô. Nhưng khi mẹ con gặp lại, cô lại thành cái xác chết thảm giữa ruộng đồng.
Hòa lau nước mắt, tiến đến an ủi Nha, bảo cô đừng khóc nữa, mẹ cô chết oan uổng, ông Trời chắc chắn thấy, sẽ trừng phạt kẻ sát nhân thích đáng. An ủi Nha xong, Hòa quay lại nói với làng:
– Nhờ mấy bà trong làng về chuẩn bị đồ làm lễ, còn mấy chú đem cáng đến khiêng xác cô Vĩ về làng, rồi tất cả tiến hành làm tang lễ cho cô.
Lễ tang được tiến hành ngay, tất cả tập trung trước nhà cô Vĩ. Ai cũng chắp tay cầu siêu cho cô suốt buổi lễ, hương khói tỏa khắp không gian xung quanh, tất cả yên lặng, không có tiếng nói của ai. Xong lễ cầu siêu thì Hòa theo làng đến nghĩa trang làm lễ chôn cất cho cô:
– Hôm nay cả làng chúng tôi đến đây, vô cùng thương tiếc cho cô, thưa cô Vĩ. Cầu mong cô sẽ phù hộ cho con bé Nha, siêu sinh thịnh độ, nhanh chóng tiến đến kiếp sau. Tôi biết cô chết oan ức, nhưng cô yên tâm, chúng tôi sẽ tìm bằng được chân tướng sự việc….- Bác trưởng làng nói trước phần mộ của cô Vĩ.
Xong lễ, cả làng đi về, mỗi bé Nha với Hòa ở lại, bé Nha muốn gần mẹ thêm chút nữa. Hòa được giao nhiệm vụ phải bảo vệ bé Nha và đưa bé về đàng hoàng, kẻo có xảy ra cơ sự gì, chắc chắn phụ lòng cô Vĩ.
Trên bầu trời, đàn quạ cứ bay vòng vòng, không dám sà xuống ăn lúa dù bù nhìn đã được dẹp đi.