Hậu Giang kỳ truyện - Chương 3 - 1
Sáng đầu tháng Ba, trời Hậu Giang dịu mát như thể đất trời cũng lặng đi để lắng nghe lòng người. Gió lướt nhẹ qua rặng tràm rì rào như những tiếng thở dài rút từ đáy tâm can. Xóm Tràm, một vùng quê nhỏ nằm khuất trong xã nghèo, vẫn bình lặng như bao năm nay, nơi mà những đổi thay của đời người thường đến chậm hơn một mùa lũ.
Trong căn nhà lá đơn sơ, mái thấp thoáng sau hàng rào dâm bụt đỏ rực như lửa cháy, vang lên tiếng hát êm như ru:
– Ai đó từ nơi xa nhớ dìa quê thăm bến đò năm xưa…
Lũy tre đầu làng, bờ lao xanh xanh thắm giọt mưa…
Nơi có mẹ đang trông ngóng, ngày mong đêm…
Bây sắp dìa chưa… hỡi ơi… ru hời hò xang xê quan liu ú quàn liu…”
Đó là giọng của bà Hai, người đàn bà miền Tây đã bước qua ngưỡng sáu mươi, tóc pha sương nhưng giọng hát vẫn ngọt như nước mưa đầu mùa. Bà hát trong lúc quét sân, mắt không rời khỏi con lộ đất phèn dẫn ra xóm ngoài. Bà không hát cho vui, mà hát cho nỗi nhớ đỡ nghẹn. Mỗi lời ca là một sợi dây thả về phía đứa con trai xa xứ, mong nó sẽ nghe thấy mà nhớ đường về.
Từ trong nhà, ông Hai bước ra, tay còn cầm chổi lông gà. Nghe vợ hát, ông cười khẽ, rồi nghêu ngao hát theo, nhưng đoạn cuối thì đổi lời:
-Suốt cả ngày bà trông ngóng đi, ngóng nhìn hoài, nó có dìa đâu.
Bà Hai khựng lại, ngó liếc xéo ông một cái rồi nói:
– Người ta viết bài hát hay muốn chết, ông sửa chi cho hết hay vậy?
Ông Hai cười xòa:
– Tại bà chớ ai. Bà ngóng hoài, mà có thấy nó về đâu. Hát riết nghe buồn thấu ruột.
Bà Hai không cười cũng không đáp. Bà chỉ nhìn ra con đường nhỏ trước nhà, nơi mà mỗi ngày bà vẫn ngóng. Con đường phủ những hạt cát vàng, lặng im như tờ. Không một chiếc xe máy nào chạy vào, không một tiếng còi quen, chỉ có nỗi chờ chực rơi khỏi khóe mắt người mẹ mà chưa kịp thành giọt.
Lại nói, họ chỉ có một đứa con, tên là Lộc, năm nay hai mươi tám tuổi, làm công nhân tận Sài Gòn. Mỗi lần bà Hai nhắc chuyện cưới vợ, Lộc lại nói:
– Con chưa có công ăn chuyện làm ổn định, Cưới người ta về rồi làm khổ người ta nữa…
Bà không trả lời. Không phải không hiểu, mà vì hiểu quá nên mới nghẹn. Người mẹ nào chẳng mong con mình được yên bề gia thất, nhưng bà biết, đời sống giờ khác xưa. Lo ăn từng bữa còn chưa xong, nói gì chuyện cưới sinh.
Thế nhưng, mỗi dịp Rằm hay mùng Một, bà Hai vẫn giăng mùng, trải chiếu, soạn sẵn cái gối, cái mền, như thể chuẩn bị đón một người khách đặc biệt sẽ về bất ngờ. Bà không nói với ai, nhưng ông Hai biết, bà đang chừa chỗ cho niềm hy vọng. Dù nhỏ thôi, nhưng sống còn như hơi thở.
Mọi năm, cứ đến mùng ba tháng giêng là anh Lộc lại khăn gói về thăm hai ông bà. Vậy mà năm nay, không hiểu vì cớ chi, từ Tết đến nay vẫn bặt vô âm tín.
Bà Hai đưa mắt nhìn ra sân. Ánh nắng ban mai không gắt, nhưng vẫn đủ để soi rõ những vết chân chim nơi khoé mắt bà. Cái nhìn của bà vừa man mác buồn, vừa lặng lẽ chất chứa những điều không nói thành lời. Bà thở ra một hơi mệt mỏi:
– Nó nói với tui là Tết nó dìa… Rồi cuối cùng nó hông dìa. Nó lại bảo giữa tháng hai đi rồi con dìa…
Chưa kịp nói hết câu, ông Hai đã chen vô, giọng có phần bực bội:
– Rồi bà biết giờ tháng mấy chưa? Tháng ba rồi đó! Đầu tháng ba mà còn trông gì nữa!
Bà Hai khựng một nhịp, rồi như để giữ chút niềm tin mong manh, bà cười gượng:
– Ai biết được… Lỡ nó canh ngay ngày Tám Tháng Ba nó dìa, cho tui bất ngờ rồi làm sao? Ông có hiểu con bằng tui đâu!
Ông Hai lắc đầu, chép miệng:
– Tui bó tay bà luôn rồi! Gì mà cũng nghĩ ra cho được. Bà đúng là vô địch về suy diễn!
Bà Hai liếc ông, nói như đùa mà cũng như trách:
– Ông già mất nết! Tui suy diễn sao thì kệ tui. Ông lo đi chuẩn bị quà Tám Tháng Ba cho tui đi! Không thì biết tay tui đó!
Ông Hai ngước nhìn bà, cười hề hề:
– Nay còn bày đặt đòi quà nữa chớ! Hơn sáu chục tuổi rồi, ai mà còn tặng quà với cáp…
– Ý ông nói tui già rồi nên khỏi cần quan tâm, đúng hông? Ờ… đúng là có rồi nên không còn quý. Mà hình như ông làm chồng tui hơi lâu quá rồi đó…
Ông Hai gãi đầu, gượng cười:
– Thì… làm chồng bà mới bốn mươi mấy năm chớ nhiêu đâu mà hỏng lâu…
– Thôi đi! Mệt ông quá! Coi lo cho mấy con gà ăn giùm tui đi, tui đi chợ mua chút đồ…
Bà nói rồi bước vào trong, tay với lấy cái giỏ xách treo bên cửa. Ngoài sân, tiếng gà gáy chen lẫn tiếng lá xào xạc trong gió, còn ông Hai thì lầm lũi đi rải thóc, thi thoảng ngoái nhìn về phía bóng lưng người đàn bà ông đã sống chung hơn nửa đời người, vẫn cứng cỏi, vẫn hao gầy, mà vẫn là người giữ ấm căn nhà này trong từng nhịp thở.
Bà Hai chụp cái nón lá đội lên đầu, tay xách cái giỏ cũ bằng nhựa dẻo đã bạc màu vì nắng, rồi lặng lẽ bước ra khỏi nhà. Gió sớm lùa qua tà áo bà ba bạc màu, làm dáng bà gầy càng thêm nhỏ.